Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây nên và lây truyền qua đường hô hấp. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường thấy ở trẻ em tuổi thanh thiếu niên.
Hiện bệnh quai bị chưa có thuốc trị đặc hiệu. Tuy bệnh có thể tự khỏi nhưng cũng có thể gây ra các biến chứng lâu dài cho sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản của nam giới.
1. Quai bị là gì?
Quai bị còn có những tên gọi khác như viêm tuyến nước bọt mang tai, viêm tuyến nước bọt mang tai do virus quai bị hoặc má chàm bàm. Bệnh quai bị do mumps virus (thuộc nhóm paramyxovirus) gây nên.
Virus quai bị thường tồn tại khá lâu ở môi trường ngoài cơ thể. Thời gian từ lúc bạn nhiễm phải virus và bị bệnh thường kéo dài từ 12 đến 24 ngày.
2. Triệu chứng, dấu hiệu nhận biết bệnh
Tùy vào tình trạng bệnh, một số người gần như không có triệu chứng. Tuy nhiên, các triệu chứng thường gặp bao gồm sốt, đau mỏi người, đau cơ; mệt mỏi và chán ăn; buồn nôn, nôn; sưng đau tuyến nước bọt, má, cổ hoặc hàm;...
Trong một số trường hợp hiếm gặp, bệnh quai bị có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Người lớn mắc bệnh tình trạng sẽ nghiêm trọng hơn so với trẻ em.
Sau khi nhiễm virus từ 7-14 ngày, người bệnh sẽ có một số triệu chứng như khó chịu, mệt mỏi, chán ăn, sốt, ớn lạnh, cảm giác đau họng và đau bên góc hàm.
Sau đó khoảng 3 ngày, tuyến mang tai của bệnh nhân sẽ dần sưng to và giảm dần trong khoảng 1 tuần. Người bệnh có thể sưng 1 hoặc 2 bên mang tai và việc sưng có thể không cùng lúc, tuyến thứ 2 bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm.
Vùng sưng của quai bị thường rất đặc trưng, vết sưng thường lan đến má, dưới hàm, đẩy tai lên trên và ra ngoài; trong một số trường hợp đặc biệt có thể lan đến ngực gây phù trước xương ức. Người bệnh sẽ có cảm giác đau ở vùng bị sưng nhưng da ở vùng sưng không nóng và sung huyết.
Trong thời gian này, bệnh nhân sẽ cảm thấy khó khăn khi nói chuyện và ăn uống. Tuy nhiên, 25% bệnh nhân có nhiễm virus mà không có dấu hiệu rõ rệt, vô tình trở thành nguồn lây truyền bệnh cho những người xung quanh.
3. Đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh
Ở Việt Nam, bệnh quai bị có thể xảy ra quanh năm nhưng bùng phát mạnh và thường xuyên hơn vào các tháng Thu-Đông, vùng có khí hậu mát mẻ và khô hanh thường là khu vực lý tưởng cho bệnh lan truyền mạnh hơn.
Quai bị thường dễ lây lan ở những nơi tập trung đông người, nhóm trẻ mẫu giáo, trẻ học ở các trường trung học phổ thông hoặc thanh niên, người lớn cũng là đối tượng của bệnh. Tỷ lệ bệnh ở nam sẽ cao hơn ở nữ.
Quai bị thường ít gặp ở những trẻ dưới 2 tuổi. Sau 2 tuổi, tần suất mắc bệnh cao dần và đạt đỉnh ở độ tuổi từ 10-19 tuổi.
4. Phương pháp điều trị
Hiện nay, bệnh quai bị vẫn chưa có thuốc đặc trị, chủ yếu vẫn là điều trị các triệu chứng kết hợp chăm sóc người bệnh và phòng ngừa các biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.
Khi người bệnh có dấu hiệu đau sưng ở vùng mang tai cần đến ngay các cơ sở y tế để được bác sỹ khám và chẩn đoán phân biệt bệnh. Một số bệnh gây viêm tuyến nước bọt không nhất thiết gây ra do virus quai bị mà còn gây ra bởi các vi khuẩn và virus khác.
Nếu có các triệu chứng sốt hay đau vùng mang tai, bệnh nhân có thể sử dụng các thuốc giảm đau, hạ sốt để uống. Người bệnh cần uống nhiều nước để bù nước và các chất điện giải.
Để giảm bớt sưng đau ở tuyến nước bọt, người bệnh có thể chườm mát.
Đặc biệt, người bệnh không tùy tiện dùng thuốc kháng sinh, chỉ dùng kháng sinh khi có chỉ định của bác sỹ và khi nghi ngờ có bội nhiễm.
Người bệnh không nên ăn các thực phẩm quá cứng, thức ăn nhiều gia vị cay nóng hoặc chua; nên ăn những thức ăn lỏng, mềm, dễ ăn, dễ nuốt như cháo hoặc súp.
Người bệnh cần hạn chế vận động mạnh, nên nghỉ ngơi thoải mái, tránh tiếp xúc với người trong gia đình và xung quanh để hạn chế lây nhiễm.
Với bệnh nhân nam nếu có các dấu hiệu viêm tinh hoàn hay ở bệnh nhân nữ có dấu hiệu viêm buồng trứng cần được theo dõi chặt chẽ ở bệnh viện, tránh để lại những di chứng đáng tiếc ảnh hưởng đến sức khỏe về sau.
5. Biến chứng thường gặp
Quai bị căn bệnh thường ít gặp ở người lớn nhưng biến chứng quai bị ở người lớn lại nặng nề hơn so với trẻ em.
Với nam giới, quai bị có thể gây biến chứng viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn. Biến chứng này chiếm khoảng 20-35% nam giới mắc bệnh sau tuổi dậy thì. Biểu hiện tinh hoàn sưng to, mào tinh căng phù lên. Tình trạng viêm này có thể kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Sau đó khoảng 50% trường hợp có teo dần tinh hoàn, giảm tỷ lệ sinh tinh và có thể gây vô sinh ở bệnh nhân quai bị.
Với nữ giới, quai bị có thể gây viêm buồng trứng. Biến chứng này chiếm tỷ lệ 7% ở phụ nữ sau tuổi dậy thì.
Nếu phụ nữ đang mang thai, trong 3 tháng đầu thai kỳ, biến chứng này có thể dẫn đến sảy thai hoặc khiến thai nhi dị dạng. Ở 3 tháng cuối thai kỳ có thể dẫn đến sinh non hoặc thai chết lưu.
Ngoài ra, quai bị có thể gây ra một số biến chứng khác ở nam và nữ như nhồi máu phổi. Khi đó một vùng phổi bị thiếu máu có thể dẫn đến hoại tử mô phổi. Đây là biến chứng có thể xảy ra sau khi bị viêm tinh hoàn do quai bị nguyên nhân là do huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.
Quai bị có thể gây biến chứng viêm tụy. Bệnh nhân thường đau bụng dữ dội, bệnh nhân buồn nôn và có khi huyết áp tụt, ngất xỉu, nguy hiểm nếu không được cấp cứu kịp thời.
Nếu bệnh nhân bị các tổn thương thần kinh, biến chứng viêm não có tỷ lệ 0,5%. Bệnh nhân có các hiện tượng như người bệnh thường xuyên bứt rứt, khó chịu, tính tình thay đổi, thường xuyên đau đầu, mệt mỏi, rối loạn thị giác, tri giác, một số trường hợp đầu bệnh nhân to lên do não úng thủy. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến nhiều hậu quả nguy hiểm về thể chất và tinh thần cho người bệnh, người bệnh có thể bị điếc, viêm tủy sống cắt ngang, giảm thị lực…
Bên cạnh đó, người bệnh có thể có một số biến chứng như viêm cơ tim, viêm phổi, viêm thanh phế quản, xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm phổi…
6. Biện pháp phòng chống
- Phương pháp hiệu quả, tiết kiệm và an toàn nhất để dự phòng bệnh quai bị là tiêm vaccine đầy đủ và đúng lịch.
- Thường xuyên vệ sinh cá nhân, súc họng bằng dung dịch khử khuẩn hoặc nước muối loãng, đặc biệt chú ý cho nhóm trẻ em nhỏ tuổi.
- Vệ sinh môi trường sống, làm thông thoáng nhà ở, tận dụng ánh sáng Mặt Trời.
- Tuyên truyền giáo dục cộng đồng về tác hại c
Tag: nam giới, sức khỏe sinh sản, đặc biệt, sức khỏe, biến chứng lâu dài, thể gây ra, thể tự khỏi, dù bệnh, virus gây nên, bệnh truyền nhiễm cấp tính